Nhận thấy các mặt hàng làm từ vải thổ cẩm như áo xống, túi xách, ví, khăn, đồ lưu niệm
Chứng kiến làng dệt đang oằn mình hoi hóp trong cơn bĩ cực, những người thợ nơi đây đã không ngừng tìm tòi một hướng đi mới, một thị trường mới, một phương thuốc quý để cứu sống một làng nghề mà họ quyết trống mái để giữ giàng.Là một người con của làng quê Vũ Đại, lớn lên trong những tiếng thoi đưa, anh Trần Đức Tuyển, 'hó chủ toạ xã đôn hậu cho biết: Nghề dệt ở hồn hậu tuy không được mấy người biết đến nhưng nó đã tồn tại và gắn bó với người dân nơi này từ hàng nghìn năm nay.
Đi từ đầu làng đến cuối làng đâu đâu cũng nghe tiếng máy dệt rộn rã như bài ca lao động của một đàn ong chăm chỉ.
Thấy anh làm tốt, những người xung quanh cũng bắt chước làm theo. Nằm giáp Nam Định vốn là một địa phương có truyền thống lâu đời về nghề trồng bông dệt vải, người dân đôn hậu sớm đã thu nạp được những tinh hoa trong nghề thủ công đòi hỏi nhiều sự khéo léo, bền chí này và phát triển nó một cách rộng rãi trên quê hương mình. Nằm bên dòng sông Châu Giang hiền hòa trong mát, đất phù sa bồi đắp những mùa màng, Vũ Đại được tự nhiên ưu đãi thích hợp với nhiều giống cây trồng khác nhau.
Khi vải thô đã được cung ứng tràn lan trên thị trường bởi sự phát triển của các khu công nghiệp dệt, hình thức sinh sản thủ công không còn chỗ đứng trên thị trường, làng dệt Vũ Đại chìm dần vào quên lãng. Đang chuyển động nhịp nhàng theo máy dệt. Đường đi của những con thoi Nói về làng Vũ Đại hẳn người ta sẽ liên tưởng ngay đến những cái tên vốn đã trở thành khôn cùng quen thuộc như Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến hay những đặc sản tiến vua nổi tiếng như chuối ngự, cá kho, hồng không hạt.
Nhưng vào mùa giá lạnh này, hàng không bán được, nhà chị cũng như các nhà khác trong vùng chỉ dệt rồi đóng gói để đấy đợi đến mùa du lịch mới có người mua.
Chẳng danh tiếng, không chỗ đứng, thu nhập cũng chẳng thấm vào đâu nhưng những người thợ dệt làng Vũ Đại nghe đâu không đòi hỏi gì nhiều ngoài một mong ước độc nhất vô nhị đó là được sống chết với chiếc khung cửi, được nghe tiếng dệt vải mỗi ngày và nghe tâm hồn mình reo vui trong những sắc màu xoành xoạch tươi mới.
Trước bối cảnh ấy, anh Sản đã nghĩ ngay đến việc quay về với nghề dệt bằng chính sản phẩm mới mẻ này. Ban đầu, vì chưa có kinh nghiệm trong việc phối màu, phối hợp hoa văn nên chi những sản phẩm đầu tay do vợ chồng anh làm ra chưa thật sự trót lọt, đẹp mắt.
Mặt hàng này không quá cầu kỳ trong kỹ thuật và cũng không quá kén chọn người mua nhưng không phải bởi thế mà không đòi hỏi ở người thợ sự chuyên cần, siêng năng, sự tập kết, khéo để cho ra những sản phẩm có chất lượng. Từ một làng dệt thủ công rộn rã, sôi động, làng dệt Vũ Đại trở nên im ắng, u sầu như một cơ thể ốm yếu lâm trọng bệnh trong cơn mê sảng vẫn hoài tưởng tiếng khung cửi ẽo ẹt song thưa.
Dù rằng phải vật lộn với cuộc mưu sinh đầy vất vả nhưng họ vẫn luôn nhớ đến công việc mà mình đã gắn bó từ thuở thơ từ.
Anh tức tốc trở về nhà và bắt tay ngay vào công việc. Rất được chuộng ở các khu du lịch, nhất là ở các vùng núi, nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Thỉnh thoảng anh Sản vẫn dành thời gian lôi máy móc ra lau chùi mong một ngày sẽ được quay trở lại với nghề dệt. Làng dệt Vũ Đại lại thức tỉnh sau một giấc ngủ dài. Nhiều người trong làng vì quá nhớ nghề nên dù sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ họ vẫn hoạt động cầm chừng đợi một ngày nghề dệt sẽ hồi sinh.
Ở vùng này, không ai là không biết ít nhiều về nghề dệt. Gắn bó quá nửa cuộc thế bên chiếc khung cửi từ những năm tóc còn để chỏm đến bây giờ đã ngoài 50 tuổi, ông Trần Duy Sản (xóm 5, xã hồn hậu) là người chứng kiến nhiều bước thăng trầm của nghề dệt quê mình. Ông kể, từ khi ông sinh ra, đã thấy các bà các mẹ say sưa với công việc trồng bông dệt vải. Tuy hiện nay, âm thanh lạch cạch của những khung cửi thượng cổ đã dần được thay thế bởi âm thanh vui nhộn của những máy dệt bán thủ công nhưng về bản tính đó vẫn là những âm thanh đẹp nhất của cuộc sống nuôi dưỡng và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn người dân Vũ Đại.
Để tâm hồn reo vui bên những khung cửi Suốt bao năm nay, với người dân Đại Hoàng, nghề dệt chẳng đem lại lờ lãi là bao nếu không nói là một công việc luôn chứa đựng nhiều cập kênh, sóng gió, nhưng họ vẫn yêu nghề bằng một tình yêu vô điều kiện, bằng một niềm mê say hiếm có trên đời.
Hiện nay, dệt thổ cẩm đã khôn xiết phổ thông ở làng Vũ Đại. Những ngày nắng đẹp, hàng trăm hàng nghìn mét vải thổ cẩm tinh quái sắc màu được đem ra phơi phóng như những cánh bướm đồ sộ đang chao lượn nhẹ nhõm bên dòng sông Châu Giang hiền hòa, trong mát khiến bao tâm hồn giây khắc hóa thành thơ. Tâm hồn người thợ dệt Trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, làng dệt Vũ Đại vẫn bước thấp bước cao trên dòng chảy thời gian không ngừng biến động.
Thương nghề, nhớ nghề, rút cục họ cũng tìm ra một thị trường nho nhỏ để cung cấp các loại khăn mùi xoa, khăn tay, khăn mặt. Nhưng để nói về nghề dệt ở nơi này thì không hẳn ai ai cũng biết dù rằng so với các làng dệt lâu đời khác, lịch sử của làng dệt Đại Hoàng không hề kém cạnh.
Những người thợ dệt trong làng cũng cùng chung hoàn cảnh ấy. Dương Dung. Anh cũng hệ trọng được với một số mai mối để tiêu thụ sản phẩm và bắt đầu có thu nhập từ mặt hàng mới.
Những người thợ dệt nơi đây tuy luôn đứng trước những nguy cơ thua lỗ, ế ẩm có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng chừng như họ chưa bao giờ có ý định bỏ nghề. Trẻ thơ sinh ra có khi còn biết se tơ dệt vải trước khi biết cầm chổi quét nhà".
Và có nhẽ nhiều người dân Việt Nam cũng đã từng bắt gặp một bức tranh sinh động về làng dệt Vũ Đại ngày nào trong những trang viết của nhà văn Nam Cao. Nhà nào nhà cũng đầy ắp sản phẩm, như một cuộc triển lãm hội họa với vô thiên lủng chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ tím, chỉ hồng. Tuy nhiên theo Phó chủ tịch xã Trần Đức Tuyển, nghề dệt ở nhân từ từ xưa đến nay vẫn chỉ dừng lại ở những mô hình sản xuất nhỏ lẻ, manh mún theo từng hộ gia đình nên chưa tìm được vị trí cao trong ngành dệt.
Anh Sản kể lại, đã có những lúc hàng chục máy dệt nhà anh phải đắp chiếu trong kho suốt mấy năm liền, còn các anh chị phải lảo đảo đi các tỉnh xa làm thuê kiếm sống. Thời bấy giờ, thứ hàng được sản xuất đốn trong làng là vải thô. Nghĩ sao làm vậy. Trong khi đó, thị trường du lịch ở Việt Nam đang ngày càng phát triển, lượng khách du lịch cũng tăng lên theo từng năm đòi hỏi nhu cầu sản phẩm ngày càng nhiều.
Tuy nhiên việc tiêu thụ mặt hàng thổ cẩm này lại có thuộc tính mùa vụ rất cao. Trên con đường kiếm tìm phương thuốc ấy, họ đã phát hiện ra một mặt hàng mới, đó chính là hàng thổ cẩm. Chị Trần Thị Dung, vợ anh Sản cho biết, riêng nhà chị có 10 máy dệt bán thủ công đang hoạt động, mỗi máy cho ra khoảng 50m vải/ngày.
Nhưng với kỹ năng của một người thợ giỏi, chẳng bao lâu, anh đã thành công mỹ mãn với những tấm vải đẹp như tranh vẽ. Mặc dầu vậy, các máy dệt vẫn hoạt động nhịp nhàng, những người thợ vẫn nối công việc kết chỉ se tơ như một phần chẳng thể thiếu trong cuộc sống để chờ ngày từng thước vải sẽ hóa thân thành những món đồ lưu niệm độc đáo, theo chân khách du lịch đi khắp muôn phương.
Trong lịch sử phát triển làng Vũ Đại, việc trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải cũng đã từng được ghi lại trong sử sách như một thời vàng son của nghề dệt ở nơi này. Chị Trần Thị Dung đang rà soát chất lượng sản phẩm. Anh Phó chủ tịch xã nói nửa đùa nửa thật: "Chị cứ thử đi khắp vùng này mà xem, cứ 10 người thì có đến 9 người rưỡi biết dệt vải.
Nhiều khi mở cửa kho, nhìn đốáng máy móc im lìm dưới lớp bụi phủ dày theo năm tháng, anh chỉ còn biết rưng rưng nước mắt nhớ những ngày được đứng bên khung cửi nghe tiếng máy rộn ràng đan những đường chỉ xuôi ngược.