Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

“Lưu mới vong” trên chính quê hương

Nước lên đến đâu, lại phải khiêng lều lên chỗ cao hơn để tránh ngập nước. Ảnh: C.P

Gần 30 năm, những mảnh đời này vẫn lầm lũi, nặng nhọc kiếm sống nơi vùng giáp giới giữa 2 tỉnh Tây Ninh và Bình Dương và chẳng ai quan tâm đến họ. Thi thoảng, ai đó hỏi thăm, họ chỉ biết bùi ngùi: “Chúng tôi đang sống lưu vong trên chính quê hương mình”.

Trôi nổi những mảnh đời

Bầy vịt vẫn vô tư lự lặn hụp cạnh bờ nước đục ngầu cỏ rác. Đám trẻ mỏ vẫn hì hụp dưới hồ để vét cá trong đám lưới lằng nhằng bên cạnh những chiếc sào phơi lưới như không hề biết đến nỗi lo lắng của ba má. Cạnh mép nước, ổ trứng gà mới đẻ còn sốt dẻo vẫn chờ người chuyển đi để tránh nước ngập.

Gạt vội dòng mồ hôi bết hằn trên mái đầu quăn tít, anh Tạ Văn Tiến vừa thở vừa nói với chúng tôi: “Khu vực này thuộc ấp Phước An, xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Tại đây hiện có 108 gia đình với gần 600 con người đều gốc Việt từ Campuchia về tản mác từ năm 1988 đến nay. Cứ mỗi lần nước hồ dâng cao là cả làng phải chuyển chỗ ở. Nhiều năm rồi cứ lẩn quẩn chạy nước lụt miết. Nước lên đến đâu là nhà phải dời lên cao đến đó”.

Ngay trước mắt chúng tôi, ngay giữa trưa tháng 7, cái nắng như đổ lửa, nước mỗi lúc một dâng cao; hàng chục thanh niên da đen như “cột nhà cháy” hò nhau khiêng chiếc lều “cao cẳng” đặt lên hai chiếc thuyền nhỏ gắn máy đuôi tôm đậu gần sát mép nước để dời nhà, tránh nước ngập. Còn những người nữ giới lục đục thu dọn vật dụng vương vãi trên bãi đất trống. Tất thảy hướng về gò đất cao phía gần bờ hồ Dầu Tiếng để dựng nhà mới. Kệ nệ khiêng chiếc tivi đen trắng lấm lem bùn đất từ góc ngôi nhà lổn nhổn chai lọ, chủ quán càphê kiêm bán đồ nhậu độc nhất trong làng chài tươi cười phô hàm răng ám vàng khói thuốc: “Tivi này dùng cho cả làng, nhưng mấy tháng rồi hư mà chưa sửa được. Chính yếu coi cải lương thôi. Điện không có phải dùng bình ắcquy. Cứ 2 ngày phải sạc một lần”.

Chúng tôi theo chân đoàn người tay xách nách mang lên phía gò đất cao, nơi những ngôi nhà “cao cẳng” nối được dựng nhất thời trên nền đất cỏ mọc um tùm. Ngồi phệt xuống nền đất còn khô ráo, những người đàn ông tranh thủ chia nhau vài điếu thuốc. Nhìn đám trẻ em vẫn chơi đùa ngoài mép nước, một người đàn ông có khuôn mặt khắc khổ thở dài: “Chúng nó chỉ biết lặn mò cá, gỡ lưới thôi chứ có học hành gì đâu. Ba má không có mảnh giấy tờ lận lưng từ Biển Hồ về đây, nên con cái đành phải thất học. Làm vần vật từ sáng đến tối để kiếm cá bán lấy tiền mua gạo sống qua ngày, nên chuyện chữ nghĩa xa vời lắm”. Nói rồi người đàn ông này lén quay đi giấu nỗi buồn trong làn khói thuốc khét mù...

Men theo con đường mòn, chúng tôi ghé vào chỗ chị Nguyễn Thị On, 40 tuổi, có 4 người con. Đó là một túp lều bé tẹo, mái lợp bằng những tấm nhựa đã bạc màu theo nắng gió. Nửa nằm nửa ngồi vá lưới trong căn lều bốn bề vi vút gió, chị On buồn rầu: “Nhiều đêm nằm cứ chập chờn lo sợ dông gió thổi sập lều, lo nước lớn cuốn mấy đứa con xuống lòng hồ. Sống ở đây thiếu mọi thứ: Không điện, không nước sạch nhưng lo nhất là đời mình đã thất học nay lại đến đời con cũng thế vì không ai có mảnh giấy tờ tùy thân, nên con cái đâu có giấy khai sinh để đi học. Nói thiệt, lúc ở Campuchia, bọn tôi sống lưu vong ở xứ người, bí quá mới tìm về Việt Nam, thế mà sống cả chục năm nay, chẳng hiểu sao bọn tôi vẫn bị gọi là... Việt kiều?”.

Cạnh đó, trên chiếc lều “cao cẳng”, hai vợ chồng ông Nguyễn Văn Thành tranh thủ đảo lại rổ lạc mà người con gái mót được từ mảnh ruộng gần đó. Rót mãi mới được cốc nước mời khách, bác Thành đãi đằng: “Mấy hôm nay không mưa nên nước uống phải tiện tặn lại. Còn tắm giặt, nấu ăn thì cứ ra giữa hồ mà múc về”. Nhìn về phía bầy trâu hàng trăm con của những người dân địa phương đang gặm cỏ, ông Thành thở dài: “Biết là nước bẩn nhưng phải cắn răng mà dùng, vì đây có phải đất của mình đâu mà đào giếng để lấy nước sạch. Chỉ tội cho mấy đứa trẻ vì nước bẩn mà bệnh tật liên hồi, ghẻ lở khắp người”.

Giấc mơ an cư

Thấy có người lạ vào làng, một đám trẻ thơ trần trùng trục tò mò chạy theo. Chúng tôi sửng sốt, không hiểu tại sao mà lắm trẻ nít đến thế? Chúng ton tả chạy học đòi xem cái máy ảnh trên tay chúng tôi, dễ có đến 30 – 40 đứa gì đó, đứa lớn, đứa bé chỉ hơn nhau cái đầu. Hoá ra trong xóm chài này, gia đình ít con nhất cũng 4 đứa, nhiều nhất đến 9 đứa.

Quét dọn đồ đoàn trước khi nước lên.

Nhìn gương mặt sạm nắng của anh Nguyễn Văn Giàu, 42 tuổi, chúng tôi ngỡ anh đã gần 60. Anh có 9 đứa con, đứa lớn 21 tuổi và đứa nhỏ nhất 5 tuổi cùng sống trong chiếc lều không đầy 10m2. Anh cho biết, 5 năm trước sống ở Biển Hồ khổ đau quá nên nghe theo lời anh em về ở đây, nhưng không ngờ ở đây cũng khổ cực chẳng kém gì bên đó. Cả gia đình chỉ mong chờ vào những mẻ lưới cá đêm của anh, lúc được lúc không nên chưa khi nào những đứa con của anh đủ ăn, đủ mặc.

Không riêng gì gia đình anh Giàu, cả cái xóm chài này nhà nào cũng nheo nhóc, tối mặt tắt đầu vì lo bữa ăn hằng ngày, vì họ không có đất đai, hay bất cứ nghề ngỗng gì khác ngoài úp mặt xuống hồ.

Nói về cuộc sống của những người dân từ Campuchia về sống du cư trong lòng hồ, một lãnh đạo của Công ty khai khẩn thủy lợi Dầu Tiếng lắc đầu: “Cũng là người dân nhưng cuộc sống của làng di động này quá khổ cực. Thấy họ sống trong lòng hồ không điện, không nước, trẻ nít thất học chúng tôi cũng thấy buồn lắm, nhưng chưa biết sẽ giải quyết như thế nào vì nhiệm vụ này thuộc về chính quyền địa phương”.

Điều kỳ lạ là khi chúng tôi hỏi hướng hỗ trợ cuộc sống bấp bênh cho những người dân này thì một cán bộ văn phòng UBND xã Phước Ninh đã “vặn” chúng tôi: “Ai cung cấp cho mấy anh tin này?”. Cãi nhau một hồi, cán bộ này mới thú thiệt, đến lúc này chính quyền xã vẫn không nắm được chuẩn xác có bao nhiêu hộ dân Việt kiều từ Campuchia đang sống tạm trú trong lòng hồ? Còn về hướng giải quyết thì cũng khá chung chung theo kiểu chưa có quy định rõ ràng nên chính quyền xã chưa biết giải quyết ra sao...

Anh cán bộ xã này cũng khẳng định với chúng tôi, rằng: Chính quyền xã liền tù tù phải giải quyết những vụ mâu thuẫn, tranh giành lợi quyền lẫn nhau của cư dân lòng hồ. Nhưng với lý do không giấy tờ tùy thân, không nhà cửa thì chính quyền không giải quyết bất cứ việc gì.

Để hiểu rõ hơn cuộc sống của những người mà dân gian vẫn gọi là Việt kiều này, lựa lúc sẩm tối, chúng tôi quay lại làng chài. Lúc này, đường vào bị bầy trâu hàng trăm con nằm ngổn ngang án ngữ. Gầm gừ mãi chiếc xe máy mới vào đến doi đất lấp loáng ánh lửa hắt ra từ những túp lều dựng tạm lúc trưa. Đón chúng tôi ngay đầu làng, ông Tạ Văn Tiến vui mừng: “Chuyển xong nhà rồi, đang chờ bắt bầy gà nữa là xong”.

Bên chén rượu suông với vài trái dưa chuột giữa những ánh mắt kinh ngạc của hàng chục đứa bé đứng ken đầy bên ngoài, ông Tiến tâm sự: “Gia đình nào cũng đông con nên chật vật lắm. Tuy là làng sống tạm trú, nhưng còn khá hơn hai làng khác ở thượng nguồn hồ Dầu Tiếng, phía huyện Tân Châu; vì ở đây gần chợ cá nên người dân trong làng còn có chỗ bán. Lúc đầu làng này chỉ có vài hộ về cắm lều đánh cá sống qua ngày. Sau đó người về đông dần nhưng hồ Dầu Tiếng nức danh là nhiều cá nên ai cũng có phần. Có lều ở tạm, có thuyền, có cá, có gạo ăn và sướng nhất là được sống trên đất quê hương. Mơ ước cuối cùng của chúng tôi là sớm được định cư, có đất sinh sản để con cái được học hành...”.

“Việc bà con mỗi ngày trở về từ Campuchia một đông, nhưng chính quyền tỉnh Tây Ninh vẫn chưa nắm được con số cụ thể và tổ chức định cư cho họ, e rằng sẽ gây ra nhiều phiền phức trong tương lai không xa. Chẳng thể để bà con sống mãi kiếp “lưu vong” giữa lòng hồ, trên chính quê hương, mà không có sự quản lý của chính quyền địa phương, vì nó còn ảnh hưởng đến an ninh trật tự của một công trình thủy lợi cấp quốc gia” - một lãnh đạo Công ty khai khẩn thủy lợi hồ Dầu Tiếng phát biểu.