| Phiên tòa xét xử nhà báo, luật sư Hà Tuấn Ngọc |
Quan tòa không hiểu Luật?
Lâu nay, chứng kiến nhiều bản án “ngược đời”, oan sai đến mức vô lí, nhiều người cùng đặt câu hỏi: liệu có những quan tòa ngu đến mức không hiểu Luật?
Điều này là chẳng thể xẩy ra, bởi vì những thành viên của Hội đồng xét xử được đào tạo chuyên về Luật, tư pháp, họ nắm rất chắc, rất kĩ các điều Luật, các qui định của pháp luật can hệ đến lĩnh vực tư pháp, cũng như các qui định can hệ đến lĩnh vực, đối tượng xét xử.
Bên cạnh đó, họ còn có nhiều thâm niên, kinh nghiệm trong lĩnh vực này, biết rất rõ từng “chân tơ kẽ tóc” của các loại tầy, các mối quan hệ xung quanh vụ án.
Họ có đủ thời gian, điều kiện nghiên cứu hồ sơ, có thẩm quyền khai khẩn tư liệu đảm bảo đủ thông báo cho việc xét xử.
Vậy thì, vì sao nhiều bản án oan sai, vô lí vẫn được tuyên?
Chỉ có một lí do độc nhất, họ cố ý. Vì động cơ cá nhân chủ nghĩa, vì những “chỉ đạo”, “áp lực” bí hiểm nào đó. Vì họ nghĩ rằng họ có quyền, họ nắm pháp luật, không ai làm gì được họ.
Xin nêu một tỉ dụ: Tại phiên sơ thẩm ngày 5/9/2012, TAND tỉnh Quảng Trị đã kết án trùm ma túy Đậu Xuân Duyên (quê Hà Tĩnh) tội tử hình.
Nhưng liền sau đó, ngày 19/12/2012, TAND vô thượng tại TP.Đà Nẵng đã tuyên không tử hình bị cáo này.
Bản án vô lí đến mức cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Trị đã phản đối bản án này đến cơ quan chức năng của Quốc hội. Kết quả điều tra cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn Đậu Xuân Duyên đã thực hiện 7 lần tải mua bán ma túy với số lượng rất lớn (26 bánh heroin và 4.600 viên ma túy tổng hợp).
Trong khi Điều 194 BLHS quy định người nào mua bán trái phép ma túy có trọng lượng từ một trăm gram trở lên thì bị phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Vậy mà các quan tòa vẫn tuyên cho Duyên thoát chết được! Liệu có điều gì khúc mắc ở đây chăng?
Trong khi ai cũng biết, các ông trùm ma túy đều bừa bãi phong lưu. Và để mua mạng sống, chẳng ai tiếc tiền.
Đến nay, sự việc vẫn đang bị rơi vào tình trạng “im lặng đáng sợ”, có nguy cơ bị “chìm xuồng”. Và các vị quan tòa bất chấp luật pháp kia, vẫn thung dung tại vị, cầm cán cân công lí.
Trở lại vụ án xét xử nhà báo, trạng sư Hà Tuấn Ngọc, các vị quan tòa TP Vĩnh Yên đã “phong” cho ông Ngọc là “người có chức phận, quyền hạn”; tưởng tượng ra ông là “công chức” để đưa ông vào tròng.
Trong khi các văn bản pháp luật đều không có qui định đối tượng “phóng viên”, “luật sư” là công chức. Hiểu một cách đơn giản, “công chức” là người thuộc biên chế quốc gia, nằm trong bộ máy quản lí Nhà nước.
Về chế độ, công chức là người không phải đóng bảo hiểm thất nghiệp, được hưởng phụ cấp 25% lương hàng tháng.
Còn nhà báo, trạng sư là những thành viên thuộc hội nghề, hoạt động theo nhu cầu tầng lớp, tự kiếm sống, Nhà nước không trả lương, không qui định biên chế, không cai quản nhân sự, ngoại trừ một số báo thuộc ngành công an, quân đội…
Đã không là “công chức”, không có “chức vụ, quyền hạn”, thì ông Ngọc lấy gì mà thi hành “công vụ”, mà “lợi dụng”?
Nhưng người ta vẫn tuyên án được! Với một bản án khôn cùng nặng nề, trong khi đó, những “chính danh thủ phạm”, những người phải chịu trách nhiệm chính là ông Trường, ông Trúc thì chỉ bị án treo, có thuộc tính “cho có”?
“Có dấu hiệu trả thù”?
Theo nguyên lý của cơ quan tư pháp, thì các hoạt động điều tra, xét xử được tiến hành một cách độc lập, không chịu chi phối bởi bất cứ cơ quan, thế lực nào.
Tuy nhiên, đó chỉ là lí thuyết, còn trong thực tiễn thì mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp - hành pháp – tư pháp ở địa phương khôn xiết khăng khít, chặt chẽ, “tuy ba mà một”.
Ở một số địa phương, khi xử lí một sự việc kiện tụng phức tạp, ông Chủ tịch đã mời Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án dự, cùng “thống nhất quan điểm” trước khi xử lí.
Quyết định ban ra, dân thấy còn oan sai, đâm đơn khởi kiện ra Tòa, “kêu” lên công an, Viện kiểm sát…? Chả có ý nghĩa gì. Vì các vị đã “thống nhất” rồi, hiện nay coi xét cái gì nữa?
Như vụ Đoàn Văn Vươn, quá oan sai, ông Vươn khiếu nại, tố cáo, khởi kiện…nhưng vớ đều vô hiệu, vì đã “thống nhất” rồi.
Chỉ đến khi súng nổ, Thủ tướng chỉ đạo, các vị mới cúi đầu tra tay vào còng.
Trở lại vụ án Hà Tuấn Ngọc, không chỉ diễn dịch, áp đặt về tội danh và tuyên án quá nặng đối với ông Ngọc, trong khi ông không phải là chủ thể của hành vi sai phạm, cơ quan điều tra còn ứng dụng biện pháp tạm giam ông một cách quá hà khắc.
Về qui định tạm giam,Bộ Luật Tố tụng hình sự2003 qui định:“Điều 88. Tạm giam 1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản ngăn việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp kiến phạm tội. 2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi trú ngụ rõ ràng thì không tạm giam…”.
Đối với trường hợp ông Ngọc, có thể không cấp thiết phải bắt tạm giam vì bị cáo không phạm tội rất nghiêm trọng và sẵn sàng cộng tác với cơ quan điều tra, bản thân là thương binh, tuổi cao sức yếu.
Về kì hạn tạm giam, theo qui định củaLuật Tố tụng hình sự: “Điều 120. Hạn vận tạm giam để điều tra hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tù ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nhân nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tù túng rất nghiêm trọng và tù hãm đặc biệt nghiêm trọng”.
Trong trường hợp gia hạn, đối với tù túng nghiêm trọng cũng không gia hạn quá 3 tháng.
Thế nhưng ông Ngọc đã bị tạm giam tới 14 tháng!
Sau này, cho dù ông Ngọc có được thân oan, được giảm nhẹ hình phạt…thì không ai có thể quay ngược thời gian, bồi hoàn được cho ông 14 tháng trời bị giam giữ trong cảnh tuổi già, sức yếu, bệnh tật.
Đúng là “chờ được vạ, má đã sưng”!
Hình phạt nào cho các quan tòa lạm quyền?
Bộ Luật hình sựqui định rõ:“Điều 295.Tội ra bản án trái luật pháp Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái luật pháp, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”.
Luật đã qui định như vậy, dù còn rất nương nhẹ, nhưng theo chúng tôi được biết, cho đến nay chưa có vị quan tòa nào bị áp dụng hình phạt nói trên.
Cho dù các bản án oan sai được “sản xuất” ra liên tục, hàng ngày.
Nói về tính chất “nguy hiểm cho xã hội”, thì hành vi nói trên của các vị quan tòa là cực kì hiểm.
Nó phá hoại tận gốc rễ nền pháp chế tầng lớp chủ nghĩa, làm mất niềm tin của người dân vào cơ quan bảo vệ luật pháp, mầm mống nảy sinh tù nhân và bất ổn từng lớp.
So với hành vi trộm vài con gà, cướp cái điện thoại…thì hành vi của kẻ nhân danh pháp luật, dựa vào quyền lực xét xử để làm trái luật cần nghiêm trị với những chế tài nghiêm khắc.
Một bên, nhiều khi phạm tội do cùng đường, cùng quẫn, do thiếu hiểu biết, nhận thức hời hợt.
Một bên là những kẻ có địa vị, chức quyền, học thức, bằng cấp đầy mình, mồm luôn ra giảng về đạo đức, công bằng, liêm chính…
chẳng lẽ với trình độ, nhận thức, kinh nghiệm của những người chuyên xét xử, các vị quan tòa Tp Vĩnh Yên không biết ông Ngọc không phải là “công chức”, không biết ông chẳng có “quyền hạn, chức vụ”, hay “công vụ” gì để mà “lợi dụng”?
Lẽ nào các vị không biết việc tạm giam ông tới 14 tháng là không cần thiết và trái Luật?
chẳng thể có chuyện đó!
Chúng tôi viết những dòng này, coi như nội dung tố cáo, gửi tới các vị có trách nhiệm và cơ quan chức năng của tỉnh Vĩnh Phúc để coi xét, xử lí.
Hi vọng rằng, lương tri và công lí không thể bị vùi dập mãi!
Trần Quang Đại
|