Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Hiệu ứng hăng hái của trần lãi những suất cho vay.

Cho nên, tự do hóa lãi suất tín dụng chỉ nên vận dụng khi có sự chín muồi các điều kiện, nhất là kinh tế vĩ mô ổn định và cơ chế quản lý -giám sát thị trường đồng bộ và hiệu quả, nhằm phát huy tạo hiệu ứng tích cực và giảm thiểu tác động mặt trái của cơ chế này

Hiệu ứng tích cực của trần lãi suất cho vay

Mặt khác, có thể làm tăng gánh nặng tổn phí vốn và các rủi ro tín dụng, giảm sức cạnh tranh, động lực vay vốn của doanh nghiệp; làm gia tăng tình trạng cho vay "nặng lãi" và làm tổn hại đến chính triển vọng ổn định và phát triển ngay trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, sau thời gian không lâu, mặt bằng lãi suất cho vay (LSCV) bị đẩy lên chóng vánh, gấp nhiều lần mức nhàng nhàng của các nước khu vực và thế giới, vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp.

TS NGUYỄN MINH PHONG. Sau nhiều lần điều chỉnh, từ ngày 13-5-2013, TLSCV này được giảm tiếp xuống 10%/ năm.

Cùng với xu hướng "mặc cả lãi suất", các dịch vụ đáo hạn nhà băng nở rộ càng góp phần đẩy nhanh sự đổ vỡ của nhiều hoạt động "tín dụng đen" và vỡ nợ ngân hàng. Theo thống kê của VCCI, phí lãi vay chiếm 24% giá vốn hàng bán của doanh nghiệp; nhờ giảm LSCV tới nay được khoảng 40% kể từ thời khắc áp trở lại TLSCV năm 2012, nên giá vốn hàng bán của doanh nghiệp cũng giảm được tương ứng 10%. Triển vọng nào cho trần lãi suất tín dụng?  thực tại thời gian qua cho thấy, ngộ nhận lớn nhất là tự do hóa LSCV quá nhanh và sớm hơn tự do hóa LSHĐ.

Ích lợi kinh dinh không dễ để các ngân hàng tình nguyện hạ LSCV nếu họ không chịu áp lực cả hành chính và tài chính đủ lớn từ trên xuống và từ cạnh tranh thị trường. Theo NHNN, nợ xấu cũng đã có sự cải thiện, về tỷ lệ giảm từ 8% tổng dư nợ tín dụng ngân hàng cuối năm 2012, xuống còn 6% vào quý I-2013 và chỉ còn khoảng 4,65% vào 20-6-2013.

Ảnh:TRẦN VIỆT      Bỏ trần lãi suất và những kỳ vọng  Kể từ ngày 14-4-2010, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN chính thức cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận, đồng nghĩa với việc dỡ bỏ trần lãi suất cho vay 12%/năm trước đó.

Theo đó, LSCV ngắn hạn bằng VND cho các doanh nghiệp thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp ngành công nghệ cao) tối đa bằng 15%/năm. Tuy nhiên, TLSCV có thể hạ thêm do lãi suất và điều kiện cho vay hiện vẫn là áp lực lớn đối với việc tái đầu tư của doanh nghiệp và do vẫn còn khả năng thu hẹp chênh lệch LSHĐ và cho vay nhờ cải thiện quản trị nhà băng và đề cao trách nhiệm xã hội của toàn ngành.

Tình trạng doanh nghiệp thua lỗ, đóng cửa và giải tán hàng loạt; rủi ro tín dụng tăng cao tỷ lệ thuận với nợ xấu tăng vọt và sự phổ biến các vi phi pháp luật và các rủi ro đạo đức trong hoạt động nhà băng. Những hệ lụy trái chiều ngày càng nặng nề như tín dụng bị lệch lạc cả về cơ cấu và lãi suất; dư nợ tín dụng bị tập kết vào số lĩnh vực đầu tư rủi ro cao, như bất động sản và chứng khoán; tình trạng khan hiếm hoặc khó tiếp cận tín dụng đậm hơn ở các lĩnh vực kinh doanh ít lãi, dù thuộc lĩnh vực ưu tiên.

Động thái điều hành này khi đó được đánh giá là hạp thực tại, với kỳ vọng tạo tính minh bạch, thông thoáng, cải thiện thanh khoản, tránh làm méo mó, không công bằng và tiêu cực. Tín dụng cho vay theo lãi suất thỏa thuận là bước đi thế tất trong lộ trình thị trường hóa đầy đủ hoạt động ngân hàng và luôn có tác động hai mặt: Một mặt, giúp cân bằng cungcầu vốn ở một mức lãi suất hợp lý và đề đạt sát diễn biến của thị trường tiền tệ.

Số doanh nghiệp đăng ký mới gia tăng và số quay lại hoạt động cũng được cải thiện đáng kể. Đồng thời các nhà băng cũng sẽ chủ động thỏa thuận được lãi suất huy động (LSHĐ), đảm bảo khả năng kinh doanh và an toàn hệ thống của ngân hàng, tăng vốn cho nhu cầu hợp lý của nền kinh tế, cũng như giảm mặt bằng lãi suất để tương trợ doanh nghiệp.

Nhu cầu vay vốn qua nghiệp vụ thị trường mở giảm dần. Việc tiếp chuyện áp và hạ TLSCV trực tiếp góp phần cải thiện phí tổn vốn cho doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng, đầu tư xã hội với những hệ lụy hăng hái lan tỏa của chúng; song song, mở mang dư nợ tín dụng, cân đối hơn cơ cấu dư nợ giữa các ngành và định hướng tốt hơn các luồng vốn cho sinh sản, giảm sức ép nợ xấu của cả doanh nghiệp và ngân hàng, tăng sự ổn định hệ thống và kinh tế vĩ mô.

Trong thời kì tới, cần chú ý kiểm soát TLSCV thay vì kiểm soát trần LSHĐ. Điều này trực tiếp tạo động lực cho doanh nghiệp giảm giá hàng, giảm tồn kho, cắt lỗ, kích thích cầu thị trường và vay vốn để bước vào chu kỳ kinh dinh mới, tạo động lực tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm và an sinh từng lớp với các hệ lụy tích cực khác.

Các nhà băng thậm chí phải vay nhau qua đêm với lãi suất tới hơn 30% và phải có thế chấp. Nhờ đó, mặt bằng lãi suất có sự cải thiện đáng kể. Đặc biệt, mức trần chung cho tuốt tuột các khoản vay cũ khác cũng phải kéo về mức tối đa 13%/ năm. Thực tiễn cho thấy, không nên ngộ nhận việc hạ trần LSHĐ là tự động sẽ dẫn tới ngay việc hạ trần LSCV nếu thiếu các quy định đi kèm "neo" mức chênh lệch LSCV với LSHĐ.

Những quyết sách áp trở lại TLSCV nêu trên đã phát huy tác dụng tích cực cả đối với doanh nghiệp, nền kinh tế, cũng như đối với hệ thống ngân hàng, nổi trội là giảm nợ xấu; tăng số doanh nghiệp đăng ký mới và quay trở lại hoạt động; cải thiện và lành mạnh hơn mặt bằng lãi suất chung và cơ cấu tín dụng theo mục tiêu của quản lý quốc gia, niềm tin về kiểm soát lạm phát được củng cố hơn.

Hiện LSHĐ của TCTD phổ quát ở mức 1-2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng khoảng 6-7,5%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên khoảng 9-10,5%/năm.

Sự đổ vỡ lòng tin giữa nhà băng với doanh nghiệp và giữa các ngân hàng với nhau trở lên gay gắt.

Nên, cần tăng cường các khuyến khích và kiểm soát từ NHNN để đảm bảo gắn kết trực tiếp giữa giảm LSHĐ với kiểm soát TLSCV, hài hòa ích lợi nhà băng, người gửi tiền và doanh nghiệp, tăng đồng thuận xã hội và sự ổn định chung của hệ thống nhà băng. LSCV phổ thông đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 9-11%/năm, cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác ở mức 11-13%/năm ở khối ngân hàng thương mại quốc gia, 12-15%/năm ở khối ngân hàng cổ phần.

Doanh nghiệp làm thủ tục vay vốn tương trợ lãi suất tại VIB Bank. Về lý thuyết, không nên tiếp chuyện giảm nhanh LSHĐ xuống dưới mức lạm phát năm, vì có thể làm giảm huy động vốn thực tiễn và làm tăng áp lực thanh khoản của mỗi ngân hàng và toàn hệ thống. Cuộc cạnh tranh thanh khoản và đua LSHĐ "nóng" bùng nổ giữa các ngân hàng khiến nhà băng quốc gia (NHNN) phải ra lệnh áp trần LSHĐ một cách hình thức, vì luôn bị các nhà băng tìm mọi cách để lách qua.

Nhất là nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động tín dụng ngân hàng theo đúng nguyên tắc thị trường, chống lạm phát cao quay trở lại, buộc người đi vay và người cho vay tính hạnh chặt đẹp, sử dụng đồng vốn vay một cách hiệu quả vào sinh sản kinh doanh.

Áp lại trần cho vay  Trước những hệ lụy trên, động thái kiểm soát có mức độ trở lại TLSCV được chính thức ghi nhận bởi Thông tư số 14/2012/TT-NHNN do NHNN ban hành ngày 4-5-2012. Vốn khả dụng bằng VNĐ của các TCTD khá ổn định, thừa so với yêu cầu dự trữ bắt buộc và nhu cầu thanh toán.