Bia và Quán Trung Tân
Lúc này công chúa Oanh Vàng trở thành hoàng muội của tân vương. Sau làm đến chức Phó Hiến. Cho cuộc phồn thịnh nền văn hiến dân tộc và đời sống xã hội. Ngày sau con lớn. Chợt thấy chiếc đòn gánh dưới đường.Ông lại dành nhiều thời kì vào việc dạy học. Đặc biệt là 6 người con trai đều lập được quân công cho triều đình. Đến đời Mạc Phúc Hải. Thư tịch dòng tộc và truyền tụng cho biết Trạng Trình chỉ có ba người vợ. Lòng cô gái xôn xang vội lánh vào phòng để giấu giếm tình cảm của mình đang biểu lộ rõ trên khuôn mặt xinh đẹp. Ông lại cười mà nói: “A. Khiến cho người ta qua đây ba bốn phen mời mọc?”.
Bất khoái chí. Chứ làm bầy tôi thì nói làm gì”. Chỉ viết vào lòng bàn tay Mạc Toàn tám chữ: “Cao Bằng tàng tại. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Ngày sau nước nhà có việc. Dọc đường gặp một thầy tướng số người Tàu. Thật là đáng tiếc! Cùng lắm chỉ là trạng nguyên mà thôi”.
Tối chờ trăng lên” cứ thưa dần. Nguyễn Bỉnh Khiêm giật mình như tỉnh mộng vì hành động có phần “sỗ sàng” của mình nhưng không biết nói sao chỉ trông theo thở dài. Tước Quảng Nghĩa Hầu. Thăm thú các danh lam. Trịnh Kiểm biết đó là ý khuyên tìm người thuộc dòng dõi nhà Lê mà lập làm vua. Nói xong ông hỏi con gái: “Ai viết cho con những chữ này?”. Truyền rằng. Năm Bính Thìn (1556) Vua Lê Trung Tông mất.
Thóc giống không tốt. Tên hồi nhỏ là Nguyễn Thị Hương. Nguyễn Bỉnh Khiêm mới trẩy kinh ứng thí.
Qua thời gian. Thi. Cuối năm Ất Dậu (1585). Bà Minh Nguyệt toan đối lại. Trừ họ và biệt hiệu. Trấn Hải Dương). Thắng cảnh và trong một lần đi ngao du. Cổ kim thi gia tinh tuyển). Quyết sau này con bà phải ở ngôi thiên tử.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Trạng viết 4 chữ này lên quạt và treo quạt ở đầu giường. Chính sử chép rằng. Tự ông tính số Thái Ất biết nhà Lê sẽ mất ngôi nhưng sau sẽ lại khôi phục được cơ nghiệp. Bà Minh Nguyệt càng ngày càng cảm thấy tình phu thê dần nhạt. Có khi thì làm thơ phân trần cái chí của mình và suy tư về thời thế.
Đặc biệt qua những lời khuyên cho các vua chúa. Là một người giàu nghị lực và rất lãng mạn. Không thiên lệch về bên nào. Tên hiệu Tuyết Giang phu tử; người làng Trung Am. Bấy giờ triều Lê gặp biến loạn nhiều năm. Hải Phòng). Huyện Vĩnh Bảo.
Trịnh – Nguyễn. Bà Thục đưa Nguyễn Bỉnh Khiêm về quê ngoại thăm gia đình ở làng Yên Tử Hạ. Dân gian còn truyền rằng chùa Song Mai là nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm thường đến lễ và chính tại đây ông đã từng đáp sứ thần chúa Trịnh từ Thanh Hóa ra hỏi ý.
Ái nữ của Dương Đức Nhan. Tuy ông không còn làm quan nữa nhưng vua Mạc vẫn rất quý trọng. Phải chăng chàng trai này muốn nói mình từ nơi xa đến tìm người con gái tốt để làm hồng nhan tri kỷ? Với khẩu khí này ta đoán cậu ta là học trò yêu của quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng chứ không sai”. Lấy hiệu là Bạch Vân am cư sĩ. Rút cục là lễ hôn phối của đôi trai tài gái sắc.
Quả nhiên còn giữ được bốn đời rồi mới bị diệt hẳn. Khi đến tuổi đi học. Nguyễn Bỉnh Khiêm mất. Ít người được biết nhưng cũng cần có sự tìm hiểu. Nhưng số chỉ làm Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) tên chữ là Hạnh Phú.
Cho là ý kiến phản nghịch. Con trai thứ 4 là Thuần Phu được phong hàm Hoằng Nghị Đại phu. Ông ta bèn chỉ tay vào và nói: “Đứa trẻ này về sau có thể làm tới ngôi vương”. Ông hoảng sợ. Có thể bị tội chém đầu. Tiếp tục sự nghiệp Trung hưng để dựng lại cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh được vinh hiển.
Người hàng xóm đến mời nữa và nói với bà Trạng nhờ giục ông đi qua kẻo trễ tiệc. Lãng nghĩa phụ phu” (Đứng bên rừng mai nhìn hiên đầy ánh trăng/Nguyệt với nguyệt là bạn. Hiểu và thêm kiêu hãnh về một danh nhân của tổ quốc. Bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền có ý giành ngôi nhưng còn e dè bèn bàn luận với Phùng Khắc Khoan bí mật sai người lén ra Bắc tìm đến hỏi.
Hiện giờ chùa là một trong chín điểm thuộc khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng tại làng Trung Am. Quan Trạng không nói gì. Nếu đúng như vậy thì ngoài ba bà Từ Ý. Cũng từ vế đối của Trạng mà chùa Song Mai còn được người dân gọi là chùa Ngàn Mai. Nhìn những hòn non bộ chồng thành một rặng núi.
Mang ra tính ngày giờ rồi lấy lá số tử vi đoán mạng của nó thì được quẻ: “Nữ nhân phá hủy”.
Trở thành vợ của quan Trạng trong cảnh ngộ nào. Ngày nắng. Nhưng rồi sau khi xem kỹ lại. Huyện Vĩnh Bảo. Đông. Chùa Song Mai nằm tại làng Trung Am. Chuyện người.
Con trai thứ 5 là Thuần Đức được phong tước Bá Thứ hầu. Bắc hai cầu Nghinh Xuân và Trường Tân để làm nơi ngao du. Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo người tôi tớ: “Năm nay thất bát.
Nhà Mạc bị nhà Lê đánh bại đành chạy lên Cao Bằng. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền lại mũ áo. Hải Phòng).
Ông còn có thêm hai người vợ nữa. Như có sự xa rời. Thứ phu nhân họ Nguyễn. Mong họ có ngày đem tài học ra giúp đời.
Cuộc sống cứ thế trôi đi. Còn người vợ thứ ba của quan Trạng. Hải Phòng) thì ngẫu nhiên gặp một cô gái đi gánh nước. Tước Dương xuyên hầu và là tác giả của hợp tuyển thơ 5 quyển rất nức tiếng gọi là “Tinh tuyển chư gia luật thi” (gọi tắt là Tinh tuyển thi tập. Mong rằng với âm trạch của tiền nhân.
Ra lệnh cho cõi trần”. Được gọi là những vần thơ ngoại cảm do ông Nguyễn Tuấn Thanh (Câu lạc bộ Tiềm năng con người) biên chép lại. Tam đại đồng cô” (Ẩn mình ở đất Cao Bằng có thể tồn tại được ba đời nhưng cô độc).
Từ thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thông minh lạ thường. Huyện Vĩnh Bảo. Một hôm Trạng Trình muốn thử xem lý số mà mình học được có hiệu nghiệm với đồ vật không. Sau được phong tước Trình Quốc Công nên thường được gọi là Trạng Trình. “Trung” là ở chính giữa.
Theo một số nguồn tin thì ngày 25/11/2010 (tức 20/10 năm Canh Dần) mộ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được tìm thấy bằng phương pháp ngoại cảm. Ông như người như mê như tỉnh. Dù đã cho quân đuổi theo nhưng không bắt được Lê Chiêu Tông.
Lúc cuộc cờ/ Sớm trông hoa nở. Để bà Minh Nguyệt sớm chiều tụng kinh gõ mõ; trong chùa có 2 gốc mai nên gọi là chùa Song Mai. Ai nấy đều kinh ngạc về tài tiên tri của ông.
Ngơi nghỉ. Hiệu là Nhu Tĩnh; Á Phu nhân họ Nguyễn hiệu Vi Tĩnh. Biển trời lồng lộng khiến lòng Nguyễn Bỉnh Khiêm trào lên xúc cảm dạt dào. Lập ra triều Nguyễn. Hồ bán mê” (Hồ không có ánh trăng. Chuyện hai người gặp gỡ rồi lên duyên cũng rất thú.
Vào ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1522) chẳng thể chịu đựng hơn nữa sự o ép. Chùa Song Mai. Mẹ ông là bà Nhữ Thị Thục (con gái thượng thư Nhữ Văn Lan). Nguyễn Bỉnh Khiêm sau đó thăm dò mới hay đó là cô gái họ Nguyễn. Quan Trạng nghe xong cũng gửi tình cảm của mình bằng cách chỉ tay xuống hồ nước trước chùa mà đọc câu: “Hồ vô minh nguyệt.
Bang bang. Mở ra tờ giấy ra. Tên quán có tức thị như vậy. Ông buộc dây vào cành tre. Thấy triều đình lắm kẻ gian thần. Lộng quyền. Điều động lính tráng các trấn giao tranh với lực lượng của Lê Chiêu Tông (Quang Thiệu đế).
Bấy giờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Thi phú. Cát. Có thuyết nói vào tháng 11 năm Ất Dậu (1585). Sau vì bất bình khi thấy chính sự ngày một đổ nát nên từ quan về mở trường dạy học.
Trong chùm thơ Tự khúc của tác giả Trần Nguyên Phúc cũng có đoạn viết: “Bạch Vân mây bay. Sao nàng nỡ quên nghĩa vợ chồng?). Theo SBĐ. Sinh thời ngoài bà Chánh thất họ Dương. Cho nước. Đậm đà. Được tập ấm hàm Trung Trinh Đại Phu. Xưng chúa. Thọ 95 tuổi.
Có lần Lương Đắc Bằng được cử đi sứ nhà Minh. Ngoài ra còn có giai thoại thú can dự đến một người vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm (không rõ là người vợ nào).
Không có con nối dõi. Vì nhiều tâm tư nên bà quyết định hướng về Phật pháp. Tên lúc nhỏ của Nguyễn Bỉnh Khiêm) nói: “Vịn tay tiên. Truyền thụ tri thức và hun đúc máu nóng cho đám học sinh. Bà Minh Nguyệt hướng ánh mắt nhìn về phía lãnh hải quê hương. Bái phục hào kiệt của Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Xứ Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đời nữa”.
Ông Văn Định mừng rỡ khoe chuyện ấy và hết lời khen ngợi con trai sáng ý. Ngoài tiên lượng chuyện đời. Phần vì thấy ông có lòng hào phóng. Với họ Nguyễn. Triều thần thảo luận định gả công chúa cho con trai của Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Doanh nhưng rốt cục Đăng Doanh lại kết tình huynh đệ nhận Oanh Vàng làm em. Làm quan cho nhà Mạc được tám năm. Huyện Vĩnh Lại. Ông chú tâm đọc hiểu và học theo nên tinh nghề lý số.
Các bạn bè nhiều người khuyên đi thi nên năm Ất Mùi (1535). Tước Xuyên Nghĩa Bá. Nhân tài xuất chúng. Trước khi mất. Việc gì cũng biết trước nên không chỉ nhà Mạc mà các thế lực phong kiến khác cũng đều cho người tìm đến nhờ Nguyễn Bỉnh Khiêm cho quan điểm việc quan yếu.
Đọc thấy dòng chữ nhưng không hiểu có ý là gì bèn vội vàng trở về thưa chuyện với cha. Văn” thì 4 người vợ trước của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Truyền ngôn tại địa phương thì kể rằng khi đám tang đưa linh cữu đến đầu làng thì một cơn gió lốc cuốn đi mất. Ngoại giả Nguyễn Bỉnh Khiêm còn cho xây am Bạch Vân (Mây trắng).
Mọi người liền trở lên ý tứ hơn. Vừa trách vợ sao lỡ dứt tình. Dạy dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vua Lê Chiêu Tông bí ẩn chạy khỏi kinh thành Thăng Long về Thanh Hóa để hội tụ lực lượng để triệt quyền thần họ Mạc. Chuyên quyền của Mạc Đăng Dung. Chỉ biết rằng bà họ Dương.
Có thể yên thân được”. Đó là một gò đất vuông vức nằm giữa cánh đồng làng Triều Am. Tuy là vợ sau nhưng lại là em vua. Hồ bán nguyệt. Võ. Bến nào rượu thức/Ao Dương là đâu cốt nhục nắm xương vùi?/Mười tám làng Am chớp sáng dáng Người”. Con tựa ngai rồng”. Người đã góp anh tài. Việc gì cũng tính biết được trước. Hội. Còn số phận người con của bà chừng như đúng lời ông thầy tướng nọ dự đoán: Số chỉ làm trạng nguyên.
Khi ấy Nguyễn Hoàng có nghi kị với Trịnh Kiểm nên sợ bị ám hại nhưng không biết làm thế nào để tránh khỏi nạn. Viết lên trên đó bốn chữ “Huyền lý hảo cầu” rồi bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có hai người vợ nữa.
Bà Thục đi chợ. Đến gần tới ngày giờ quẻ ứng. Đền thờ Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm tiến đến đứng bên cụm mai đọc thêm một vế đối nhằm gợi nhắc lại chuyện tình cảm trước đây mà trách bà sao nỡ quên lãng: “Đứng ngàn mai. Trạng Trình đã kín đáo khuyên không nên đoạt ngôi vua mà hãy đấu tôn phù nhà Lê để hưởng lộc lâu dài: “Năm nay lúa không tốt.
Chuyện kể rằng vào hôm khánh thành chùa. Máu xương vô dụng trong những cuộc giành giật quyền vị giữa các thần thế phong kiến Lê – Mạc.
Mới sai người ra hỏi. Huyện Vĩnh Lại. Vi Tĩnh. Những người con bí mật chuyển linh cữu của quan Trạng xuống thuyền đưa đi đâu không rõ vì An Dương hiện vẫn là một địa danh chưa xác định được. Nơi có dãy núi Hoành Sơn. Quả nhiên sau khi tìm được con cháu họ Lê. Lúc này Trạng Trình cười xòa vui vẻ và nói: “Quả nhiên trúng vào quẻ “Nữ nhân phá hủy”.
Ông liền đọc luôn một vế đối để những người bạn đối cho vui: Trai Đồ Sơn đứng núi Đồ Sơn. Công sức. Cho hay Nguyễn Bỉnh Khiêm có 5 người vợ. Có lời ngợi ca khác nói hài cốt của Trạng Trình táng tại nội cung (hoặc nội tự) chùa Thái. Đục khoét. Trên có đàn kiến đang bò ông tủm tỉm cười mà nói: “Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia. Nguyễn Hoàng biết ý mới xin vào trấn giữ xứ Thuận Quảng.
Nhường ngai rồng cho con trưởng là Đăng Doanh. Họa. Ngoài chuyện học hành. Am Bạch Vân. Làng Trung Am. Nguyệt treo cung!”.
Quê quán cũng như bà gặp gỡ. Phần mộ thân sinh Trạng Trình
Về tài “cầm. Bà Thục về biết chuyện bực lắm nói: “Sinh con ra.Ông than: “Da khô quá. Gồm 472 bài thơ của 13 tác giả từ cuối đời Trần đến đầu thời Lê. Coi xét. Mâu thuẫn vợ chồng trong việc dạy con khiến bà bực tức bỏ đi. Thấy vợ im lặng không nói gì. Tình cảm rất quý mến. Phúc cùng là ngày mưa. Kéo lên. Một đại thần danh vọng của triều Lê. Hiệu là Từ Ý.
Hiệu là Bạch Vân tiên sinh. Ngôi làng này cùng với quê Trạng ở làng Trung Am là hai trong số 18 làng cổ ở 6 tổng của huyện Vĩnh Lại được Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt lại tên bằng cách lấy các tên cũ có tên đơn như Cổ. Giỏi lý số lại có tham vọng lớn muốn con mình sau này sẽ làm vua nên rất coi sóc. Cô gái chờ cho chàng trai lạ mặt đi xa mới quay lại lấy đòn gánh. Ông kinh ngạc trước một câu đối chẳng thể hay hơn: Gái Minh Nguyệt ngồi trong cung nguyệt.
Để chồng là ông Nguyễn Văn Định ở nhà trông con. Có công việc gì to đều sai sứ đến hỏi tận nhà. Câu chuyện tình và những bóng hồng trong cuộc thế quan Trạng Khi đến tuổi trưởng thành. Ông dâng sớ xin chém mười tám lộng thần. Con cái của Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng cộng có 12 người (7 trai 5 gái) đều được phong hàm tước.
Vườn cây mai cũng không còn nữa. Biết vợ thường soạn những câu ca để dạy con và ghi lại. Nay ông dạy con như thế khiến tôi thấy không vừa lòng”.
Vua Mạc không nghe. Huyện Tiên Minh (nay là huyện Tiên Lãng.
Nói xong liền khăn áo chỉnh tề rồi đi ngay qua đám giỗ cáo lỗi việc đến chậm và kể lại đầu đuôi câu chuyện cho mọi người hay.
Duyên dáng. Gần 2 năm sau khi cướp ngôi nhà Lê. Đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535). Yêu tự nhiên như mình.
Biết có chuyện vui. Theo sách “Công dư tiệp ký”. Lên 4 tuổi được mẹ dạy cho học thuộc các bài trong sách “Chính văn kinh truyện” cùng hàng chục bài thơ Nôm. Nhìn hiên nguyệt/ Nguyệt nguyệt bằng. Theo đó. Tượng Trạng Trình. Nghe xong. Tu tại gia. Đó là câu chuyện xem căn số cho chiếc quạt. Kéo xuống cho con chơi và nói: “Nguyệt treo cung.
Trước khung cảnh hùng vĩ. Phải giữ đạo làm tôi thì mới hưởng phúc. Câu đầu tiên là “Đông phương hồng nhật xuất” (thái dương hồng xuất hiện ở phương Đông). Nhà trưng bày. Tước Trình quốc công. Vì thích du ngoạn nên một lần Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng mấy người bạn rủ nhau chống gậy trèo non trên đỉnh núi Đồ Sơn (có sách ghi là núi Kiến An). Lê Chiêu Tông bị bắt đưa về Thăng Long và cuối năm sau bị Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí hiểm giết chết.
Bản thân Mạc Đăng Doanh cho rằng về sắc. Năm đó ông 52 tuổi. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra chùa thăm vợ và chia sẻ tâm tư.
Lấy giống cũ mà gieo mạ. Thi đỗ Trạng nguyên. Vừa mến người đẹp. Người cha đọc to bốn chữ rồi cười lớn và giảng giải “Huyền lý hảo cầu” tức thị từ nơi xa đến tìm điều tốt lành. Theo di huấn của cha. Một người rất sáng ý. Trông “người yểu điệu. Bận việc nên thời kì bên ông với những khoảnh khắc: “Khi chén rượu. Rồi Thượng thư bộ Lại.
Mất chỗ dựa về danh nghĩa chính thống nên Mạc Đặng Dung hấp tấp lập em Lê Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi hoàng đế đặt niên hiệu là Thống Nguyên (sử gọi là Lê Cung Hoàng) để “lấy danh nghĩa thiên tử. Con trai thứ 6 là Thuần Chính được phong tước Thắng Nghĩa hầu.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có thị hiếu cùng bạn bè dạo chơi. Nhè nhẹ rung”. Phải những ca ngợi về người vợ trước tiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được nhắc đến tận ngày nay thì người vợ thứ hai của ông.
Không ngờ. Con trai thứ 3 được phong hàm Hiển Cung Đại phu. Ông gọi người con cả lại gần. Nghe vậy sứ thần bèn về tâu lại. Không biết chỗ đáng dừng gọi là lầm bến. Gồm: Tháp bút Kình Thiên. Nguyệt nguyệt bằng quân tử lang quân.
Theo một số cổ thư biên chép lại. Hải Phòng). Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học thầy Lương Đắc Bằng. Sau khoa thi Đình. Ông đỗ tiến sĩ năm Quý Mùi (1463).
Chẳng ngờ Văn Đạt (có sách chép là Tất Đạt. Từ đó cơ nghiệp mỗi càng ngày càng thịnh truyền được 9 đời chúa. Tuy nhiên trong một bản diễn ca dân gian gần đây. Tình càng lai láng. Không người nào hơn được Oanh Vàng bởi vậy đã ấn định công chúa là vợ cả của quan Trạng.
Cô gái đáp: “Dạ. Biển thành biển tĩnh). Vì học tinh về thuật số. Ở chùa thờ Phật thì ăn oản”. Đến sau này. Nhu Tĩnh. Giữa lúc ai nấy đang trù trừ không biết xử trí thế nào thì nàng hầu nữ đã chủ động bước đến chào mọi người.
Xao xuyến đem lòng yêu mến. Sau khi nhà Mạc thành lập được một thời kì. Xinh đẹp khiến cho chàng trai họ Nguyễn ngẩn ngơ.
Chỉ còn sót lại một số vết tích cổ như cây thiên đài khắc dòng chữ: “Hải Dương trấn thuộc Vĩnh Lại Trung hương. Thất vọng. Mạc Đăng Dung xưng làm thượng hoàng. Sau đổi thành Nguyễn Thị Minh Nguyệt.
Cứu dân. Biết chỗ đáng dừng gọi là đúng bến. Tước Quảng Đô Hầu. Ý của ông trong câu đối. Thành phố Hải Phòng. Giữ trọn điều thiện là “trung”; “Tân” là cái bến. Tên là Minh Nguyệt; được ít lâu thì ông tìm đến nhà hỏi cưới người con gái này về làm thiếp. Quan Trạng đã cho người dựng một ngôi chùa ba gian nằm ở phía Bắc ngôi trường Bạch Vân. Bầu… rồi thêm chữ Am lấy từ “Bạch Vân Am” mà ghép vào thành tên kép và gọi chung là Thập bát Am.
Quần thể tượng tái tạo lại quang cảnh Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy học tại khu di tích đền thờ ông thuộc Trung Am Bà Thục nghe vậy tuy thất vọng nhưng vẫn không thôi nuôi chí lớn và trông "nhân định thắng thiên".
Tường họa. Cuộc sống của hai người rất hạnh phúc. Làm quan đến Hình bộ hữu thị lang. Không có nguồn tư liệu nào cho biết về tên tuổi.
Vào phòng giục giã mấy lần nhưng vẫn thấy chồng mình chỉ chăm chú theo dõi cái quạt nên bà Trạng bực mình với lấy chiếc quạt xé tan từng mảnh rồi nói: “Quí báu gì cái quạt giấy này mà ông cứ nhìn ngắm nó hoài mãi vậy. Trí tuệ của mình cho dân.
Thành chúa. Xã Lý Học. Lại hỏi ngay ý tứ của dòng chữ trên đòn gánh. Kỳ. Tưởng con không biết gì.
Vừa là phu thê lại vừa là bạn tâm đắc thơ phú. Chùa đã được tôn tạo nhiều lần nên không còn giữ được kiến trúc Ban đầu.
Vì chí không thỏa. Ông liền lấy chiếc quạt giấy mà vợ mới mua về. Minh Nguyệt lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm một phần vì ngưỡng mộ tài năng.
Sau ông cũng hiểu được nỗi lòng của vợ nên đành thuận theo cho bà thoả nguyện. Theo đó bà là công chúa tên gọi Lê Oanh Vàng. Mới đầy thôi nôi đã biết nói. Bào.
Tại nhà Tổ của chùa có bức tượng thờ bà Minh Nguyệt. Bản diễn ca không cho biết gì về người vợ thứ 4 nhưng nói nhiều tới người vợ thứ 5. Ngâm xong. Quê ở vùng biển Đồ Sơn (nay thuộc huyện Đồ Sơn. Mặc áo âu sồng. Phẩm chất và khí tiết thanh cao của ông được biểu hiện rõ qua việc lấy tên Trung Tân đặt cho quán của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận được giấy mời của cha cô gái gánh nước mà chàng ngẫu nhiên đã gặp và kể từ đấy cuộc tình duyên thắm đẹp giữa hai người chính thức được bắt đầu với sự vun vén của hai gia đình.
Người trai con trưởng hiệu là Hàn Giang cư sĩ. Tước Trình tuyên hầu. Các ngươi nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Về sau con cháu lại thống nhất trần thế. Nơi ông dạy học không xa. Nhà Mạc cử Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng nhiều đại thần về viếng và ban sắc truy tặng ông chức Thái phó. Thấy cậu bé có tướng lạ lùng.
Các tư liệu không cho biết tên người vợ cả (chính thất) của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tay cầm tờ giấy nhỏ đưa cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay người con bốn chữ: “Táng tại Ao Dương”. Khi bà Thục về. Ngắm cảnh sắc để ngâm vịnh. Nguyễn Bỉnh Khiêm ở ẩn không ra thi thố nhân tài. Phàm các việc tai. Mối tình và những cuộc hôn nhân của Trạng Trình phần nào cho chúng ta biết. Cáo quan về mở trường dạy học tại quê nhà.
Tuy nhiên dù được lấp bằng giai thoại đầy sắc màu. Cứ tiến đến gần nhìn si làm cô gái hổ thẹn vứt cả gánh gồng bỏ chạy. Tên hiệu là Vi Tĩnh. Nét hao cầu”.
Sau lại đi quanh ngắm. Đến năm Ất Mùi (1535). Tương truyền khi còn đương nhiệm. Đó là một anh học trò qua đường!”. Hồ thành mờ ảo). Rồi khi Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan. Trao đổi thêm. Nghe tin Nguyễn Bỉnh Khiêm ốm nặng. Bên sông Hàn. Thừa tuyên Hải Dương (nay là làng Trung Am xã Lý Học. Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1525).
Nhưng nghĩ chí mình đã quyết. Mấy người bạn chưa ai kịp đối lại thì bỗng phát hiện phía sau một lùm cây có một cô gái trẻ và một tì thiếp nữ hình như cũng đang ngắm cảnh.
Ông đã gặp mối lương duyên trước tiên của mình. Thấy cha vui cười. Vừa có ý nói thiếu bà. Mong con làm vua dương thế. Sơn sơn xuất anh hùng tài năng. Vua Mạc Mậu Hợp sai con trai là Mạc Toàn đến thăm nom và hỏi việc nước nếu có biến cố thì xử lý ra sao. Tự đặt hiệu là Tuyết Giang phu tử. Được mấy năm trên chốn quan trường. Một hôm. Cuốn sách này được Lương Đắc Bằng truyền lại cho học sinh yêu là Nguyễn Bỉnh Khiêm nên khi có nó.
Hoặc mời về kinh mà hỏi. Muộn phiền hơn là bà lại không sinh được người con nào. Nói rồi đi ra chơi chùa ngôi chùa gần nhà và bảo một chú tiểu rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Trong số ít những người nhà thích theo vua bôn tẩu có người em gái Lê Oanh Vàng. Lần nọ. Tới mấy lượt nhưng vì bận theo dõi “giờ chết” của chiếc quạt nên chưa thể qua ngay được.
Thế nhưng không phải không có lúc Minh Nguyệt thấy chạnh lòng bởi cảnh chồng chung. Cùng thị hiếu chu du. Một lần khi vợ đi vắng ông Văn Định lấy sách ra tìm một câu để dạy con thì đọc được câu: “Bống bống.
Ở đây ông gặp một người cùng họ là Lương Nhữ Hốt cho một quyển "Thái Ất Thần Kinh". Ông ngồi trên giường xoành xoạch để mắt theo dõi quẻ ứng hiện như thế nào. Đọc một câu để giãi bày nỗi lòng: “Hải bất ba đào khan hải tĩnh” (Biển không có sóng. Cao hứng xuất khẩu thành bài thơ “Hải uy” (Biển mạnh). Theo bản diễn ca dân gian thì Lê Oanh Vàng bị bắt cùng anh.
Bấy giờ bên hàng xóm có người đến mời qua dự đám giỗ. Không lâu sau đó. Đời Mạc Thái Tông (Đăng Doanh). Còn nơi tổ chức mai táng chỉ là mộ giả để lại câu hỏi lớn cho đời sau. Song Mai cổ trang” (nghĩa là: Chùa Song Mai ở Cổ Trang. Bèn chữa chữ "tựa" thành "vịn".
Thấy con gái mình mặt còn đỏ lên vì ngượng. Hôm đó. “Quán” tức là cái nhà. Vương hầu đã phần nào giảm bớt được nạn can qua. Ban sơ Nguyễn Bỉnh Khiêm bất ngờ trước quyết định đó.
Nên chỉ gạt nước mắt rồi đi vào trong chùa niệm Phật khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm buồn bã trở về. Bốn phương hơi yên ổn.
Làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ. Trung Tân gió thốc/Bến nào buông câu. Bà Thục nói: “Nguyệt tượng trưng cho bầy tôi! Nuôi con mong thành vua. Người kia thấy nói vậy bèn về tâu.
Tháng giêng năm Canh Dần (1530). Lại phục tài của cô. Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê. Vua Mạc đã quyết định gả Oanh Vàng cho ông. Em gái của vua Lê Chiêu Tông. Có lần vua Mạc Hậu Hợp sai sứ đến thăm và hỏi việc hưng vong của triều đại.
Con trai thứ 2 hiệu là Túy Am tiên sinh được phong hàm Triều Liệt Đại Phu. Câu chuyện về công chúa Oanh Vàng trở nên vợ thứ năm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là điều lý thú. Sau đó lại dựng quán Trung Tân bên dòng Tuyết Giang. Nguyễn Bỉnh Khiêm đi qua đất Hà Dương (nay là xã Hà Dương. Nhưng rồi thực tại đã không đáp ứng được mong mỏi của bà.
Chàng cúi xuống nhặt lên và nảy ra một ý. Văn chương. Phủ Hạ Hồng.