Hoặc treo trên một thanh sào
Vơi đi nỗi nhớ nhà. Chuẩn bị cho cuộc hành trình đi bộ hơn 7 ngày. Ngày thứ hai. Yên Mỹ - người đi cùng đoàn tiền trạm với cụ Dương Xuân Thái kể thêm: Ngày chúng tôi đăng ký đi lên Sông Mã khẩn hoang phát triển kinh tế.Làm giàu đất mới” nên đã ở lại. Quờ quạng cơ ngơi là 2 căn nhà do đoàn tiền trạm lên trước dựng. Đường đi trở nên hiểm đến rợn ngợp. Bà Nguyễn Thị Mùi. “Đường lên Tây Bắc không đẹp như những gì nhà thơ Chế Lan Viên miêu tả. Gọi là bản. Tre. Một trong những người Hưng Yên đi tiền trạm khai phá.
Ở còn thiếu trầm trọng. Nhưng dân cư sống rất tản mạn. Hát Lay. Cắn nhau inh ỏi. Chây ì cần lao đã lén lút rang ngô rồi đúc vào ống nứa để thực hiện ý đồ bỏ trốn về quê. Dao. Nhiều người phải dựa nhà dân từ bản Púng Bán đến bản Địa.
Những người đăng ký lên Tây Bắc chủ yếu là nam thanh. Xã Yên Phú. Chủ toạ Ủy ban hành chính châu Sông Mã (huyện Sông Mã hiện nay) cũng có mặt để đi theo đoàn. Lau sậy. Nhưng vì nhiệm vụ.
Sờ soạng mọi người đều được học một khóa bồi bổ chính trị trong thời gian 7 ngày trước khi xuất hành. Xin củi lửa thổi cơm. Hạ tầng cần yếu để “rước” gia đình và những người đi sau có điều kiện phát triển. Chính quyền xã đã cắt khẩu nên chẳng thể quay về. Cụ Dương Xuân Thái (86 tuổi). Xã Nà Nghịu là một trong số ít những người còn sống và kể được câu chuyện một cách phân minh.
Ngày đầu tiên. Cụ Thái nói. Để các thành viên ổn định tư tưởng và không bị động dao ý thức trước khó khăn. Trong khi đó. Chỉ có con tàu tâm tưởng Nhờ sự chỉ dẫn của ông Lò Văn Muôn (88 tuổi). Thị trấn Sông Mã) là địa chỉ để tôi tầng những người Hưng Yên đi tiền trạm xây dựng kinh tế mới tại huyện Sông Mã (Sơn La) vào năm 1961. Dọc đường đi. Nghĩ đến gia đạo ấy mà lòng xót xa lắm. Cụ Dương Xuân Thái ngồi bên cạnh vợ hồi tưởng lại hành trình vất vả từ Hưng Yên lên Sông Mã Cụ Thái cũng cho biết.
Múa sạp. Nhà vẫn là tường đất lợp mái tranh. Trong khi đó. Bản Lê Hồng Phong. Một cái màn. Rau. Bà Nguyễn Thị Mùi. Một số dựng tạm lều lán để ở qua ngày đoạn tháng. Xe bị sa lầy. Một cái áo bông nhà nước cấp và một đôi đồ đạc sinh hoạt cá nhân. Có nhiều đoạn. Họ đã tình nguyện dồn vào sống chung trong một ngôi nhà.
Nên. Chủ quán không cần đứng bán và thu tiền. Cỏ ngứa mọc um tùm; công cụ sinh hoạt. Múa nón. Mọi người lại hối hả mượn xoong nồi. Khó nhọc đang chờ đón họ ở phía trước. Khi ấy tôi 34 tuổi.
Huyện Sông Mã. Không sao nhiêu giọt mồ hôi đã đổ; giọt nước mắt đã rơi và giọt máu đã chảy. Muôn ngàn khó khăn. Vật lộn với cung đường tử thần từ sáng sớm đến chiều tối. Bừa. Đứa con lớn đi chưa vững. Cụ Thái kể: Đầu năm 1961. Chiếc xe hết lắc phải lại nghiêng trái khiến ai nấy cũng phải thót tim. Những điệu múa xòe. Thú dữ về bản tác oai tác quái.
Tuốt mọi người phải vừa đẩy vừa vác đá kè sau bánh mới chuyển di qua được. Diện tích đất ở và đất sản xuất nông nghiệp mà huyện Sông Mã quy hoạch cho dân chúng huyện Yên Mỹ đều là rừng hoang ngút ngàn cây cối.
Đoàn xe tiếp chuyện lăn bánh từ Hòa Bình lên Mộc Châu (Sơn La). Công cụ sinh sản như cày. Chui rúc trong những tán rừng rậm rì với nỗi hãi kinh về vắt rừng. Yên nghỉ nơi cửu tuyền. Là người trực tiếp cưỡi ngựa xuống tận xã Chiềng Khương đón đoàn tiền trạm xây dựng kinh tế mới vào tháng 9/1961.
Vượt 24 con suối. Vì tiếng gọi của Đảng nên tôi quyết xung phong đăng ký đi tiền trạm. Cạnh đó là một chiếc hộp nhỏ. Chỉ đủ cho cán bộ khung và một vài thành viên ở. Nhưng vừa xuống bản. Trong đêm văn nghệ ngập tràn tình cảm xuôi ngược. Khi sức lực của mỗi thành viên gần như đã cạn kiệt. Lãnh đạo Huyện ủy. Nà Nghịu đã tổ chức lễ giao nhận quân số giữa hai huyện Sông Mã và Yên Mỹ tại bản Lè xã Chiềng Khoong với những khẩu hiệu ý nghĩa: Yên Mỹ - Sông Mã một nhà Sông Mã - Yên Mỹ đều là con chung Sau đó.
Không khí ấm êm ấy khiến mọi người quên đi sự mệt nhọc. Men theo đường mòn trơn trượt “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Mật độ thưa thớt. Ruột gan lẫn lộn. Đang làm Bí thư Đoàn xã Yên Phú. Đoàn tiền trạm lại ba lô gánh gồng quân tư trang tiếp tục hành trình đi bộ về xã Nà Nghịu dưới sự dẫn đường của cán bộ huyện.Ông Cầm Liên. Đoàn tiền trạm dừng lại ở Km22 (ngã ba thị trấn Mường Khến. Rắn rết…. Hai dân tộc Thái - Kinh đã tặng cho nhau những lời ca tiếng hát ngọt ngào. Từ năm 1961 đến 1965. Còn thiếu nghiêm trọng. Thì cũng là lúc cả đoàn đặt chân đến bản Lè. Chiều chiều. Ở tổ 2. Nhưng. Nữ tú tuổi đời còn rất trẻ và chưa xây dựng gia đình.
Nhiều người còn không dám mở cửa đi vệ sinh…; kèm theo đó là nỗi nhớ người thân da diết". Những thành viên trong đoàn tiền trạm trở nên lực lượng cốt cán phá hoang rừng hoang. Vài chục quả đồi để vào Sông Mã. Đường lên Sông Mã gian nan điệp trùng Hợp tác xã Lê Hồng Phong (xã Nà Nghịu.
Gỗ. Huyện Yên Mỹ triển khai cuộc vận động quần chúng. Từ Mộc Châu. Liềm. # Lên Sơn La xây dựng kinh tế và bảo vệ vùng biên giới của Tổ quốc. Khuôn mặt cụ bỗng ranh mãnh như muốn trở về với thời thanh xuân. Còn đứa nhỏ đang tập bò. Một bên là vách núi cao chợn rợn. Nữ tú lên tiền trạm. Không có người nào tự tiện bỏ về quê.
Thủ túc không còn hoạt bát. Không có điểm chợ búa để giao lưu hàng hóa; ngôn ngữ hai dân tộc Kinh - Thái bất đồng đã tác động đến tư tưởng của nhiều thành viên trong đoàn. Trong số họ. Mà người mua tự lấy hàng hóa rồi bỏ tiền vào hộp) nên mỗi người chỉ cần mang theo gạo là đủ. Yên Mỹ - Sông Mã một nhà Kể đến đây. Nhớ quê hương sau một chặng đường đầy gieo neo vất vả.
Vợ tôi mới 22 tuổi. Cuốc xẻng. Nhỏ và lầy lội; địa bàn dân cư cách xa nhau. Độ rộng lòng đường gần như vừa khít hai bánh xe chạy. Tôi đã tìm được những người cần gặp. Làm giàu ở vùng đất mới để đón vợ con lên hưởng cuộc sống nhàn hạ. Nhưng được các đồng chí lãnh đạo chấn chỉnh kịp thời với tư tưởng “cắm rễ cho sâu. Lại là đảng viên dự bị. Tỉnh Hòa Bình hiện nay) nghỉ nhờ nhà dân một tối.
Bà Nguyễn Thị Mùi. Mặc dù khá mệt khi phải ngồi trên thùng xe không mái che. Vì chưa được cứng hóa bề mặt nên ổ gà nhiều chẳng thể đếm xuể. Ủy ban hành chính châu Sông Mã và Ủy ban hành chính 2 xã Chiềng Khoong. Dù đôi mắt đã mờ đục. 76 tuổi. Xã Chiềng Khoong. Nhiều người đã khuất núi. Chỗ ăn. Tổ chức sản xuất. Một bên là vực sâu tun hút.
Sau đó ép thành từng nắm. Mùa mưa kéo dài 2 - 3 tháng; đường sá dốc. Bởi đó là cái nôi trước tiên mà họ xây dựng lên để “thay máu” một vùng đất hoang vu và đói nghèo. Đôi khi lại có một quán tự giác (người dân bản địa mang trứng. Nhưng khi lục lại ký ức về những ngày trước hết lên vùng Sông Mã. Cánh con gái chúng tôi và một đôi thanh niên lại rủ nhau ra bờ sông cứ thế khóc rưng rức.
Không đệm lót. Cây gai. Phát triển kinh tế vùng Sông Mã "Bị cô lập giữa điệp rừng núi; đêm đến. Một đôi người chưa quen gian khổ. Tại đó chỉ có 3 gia đình người Thái sinh sống.
Cũng chẳng có đường tàu nào. Nhường giường sẻ chiếu để đoàn tiền trạm có chỗ ngơi nghỉ và dưỡng sức. Bỏ vào tay nải để ngày hôm sau vừa đi đường vừa ăn. Quá nửa thế kỷ trôi qua đã bào mòn trí tưởng của không ít cụ cao niên. Hai chiếc xe Giải phóng đã đậu trước cửa chùa Tổng Yên Mỹ chờ đón hơn 60 nam thanh. Chủ tịch tỉnh Sơn La và ông Lò Văn Sáng. Sáng sớm ngày 14/9/1961.
Xây dựng cơ sở vật chất. Cụ Thái nhấp một chén trà mạn rồi tiếp câu chuyện còn dang dở: Trong 7 ngày lội suối. Chỉ có con tàu tâm tưởng của khát vọng chinh phục miền đất khó".
Rốt cuộc 2 chiếc xe phóng thích cũng đến được đội 4 Hoàng Văn Thụ (đoạn đường rút cục ô tô có thể chạy). Tại đây. Hoa quả đặt lên một cái bàn. Ở quê. Quê ở thôn Bình Phú. Ít người có thể mường tưởng nơi này lại hoang vu đáng sợ đến vậy. Nguyên Phó chủ toạ kiêm Phó Bí thư trực huyện Sông Mã. Tư trang của mỗi người chỉ có 2 chiếc chăn chiên.
Kinh nghiệm phát nương làm rẫy của người miền xuôi chưa có; khí hậu thời tiết thì khắc nghiệt: mùa khô nắng nóng gió Lào.