Tuy nhiên vẫn còn 182 hộ dân đang sống trong vùng lõi với những điều kiện sống vô cùng khó khăn và cực khổ nhưng vẫn chưa thể di dời”
Nhưng cũng chỉ chừng 40 hộ có điều kiện để lắp đặt, chiếm khoảng 30% số dân cư trong bản. Được rồi, ta sẽ kể, các chú ghi cho kịp nhé!” Lời của ông Cảnh cứ lù rù như tiếng vọng từ buổi hồng hoang: “Tôi được nghe pú nhạ y mệ (ông bà ba má) kể lại thôi.
Ban sơ họ sống tập trung ở khu vực khe Khặng, sau đó lan dần ra một số vùng khác của huyện Con Cuông. Từ đó, một câu chuyện ly kì tựa như truyền thuyết về sự xuất hiện của tộc người Đan Lai được hé mở, chính từ môi miệng những “già làng” của họ. Một hôm, hắn ban lệnh xuống bắt dân làng phải nộp đủ 100 cây nứa bằng vàng và một con thuyền liền mái chèo.
Chí Dũng - Minh Thư. “Các chú cứ uống rượu, ăn thịt gà đi đã, rồi thong dong Cảnh kể chuyện cho mà nghe” - ông cán gương mặt trận bản nhấp li rượu, “khà” một tiếng rồi nói tiếp: “Chuyện của người Đan Lai thì kể đến sáng mai cũng không hết.
Ngày nay, tộc người Đan Lai được xếp vào nhóm dân tộc Thổ, nhưng lại có nhiều nét văn hóa giống người Thái, và ngôn ngữ Đan Lai là sự tổng hợp của cả 3 loại tiếng nói: Kinh, Lào, Thái.
Chưa có nguồn điện lưới, bà con phải tự lắp điện cù (1 pha) tại khe suối để có điện thắp sáng.
Bộ đội biên phòng chúng tôi đã phải rất kiên trì vận động, viện trợ trong một thời gian dài hủ tục này mới dần được xóa bỏ”.
Dân làng họp nhau lại, nghĩ mãi không ra, tìm đỏ mắt không thấy những thứ trùm làng đề nghị. Phải rất khó khăn, lính biên phòng mới có thể tiếp cận được với nhóm người này. Dân làng phải đi đào củ mài ăn cho hết đói. Ngày đó không rõ vào năm nào, không lẽ, tại vùng Hòa Quân, Thanh La (Thanh Chương hiện tại) có một tên trùm làng rất gian ác. Gặp ông Lê Văn Cảnh, cán bộ mặt trận bản đúng lúc ông vừa luộc xong một con gà rừng.
Chúng tôi đặt mục tiêu xóa mù cho bà con càng sớm càng tốt”- anh Hồ Hữu Nghệ cho biết. Ông Cảnh vừa nói vừa cầm thêm một chai rượu ra ngồi giữa phản, mắt sáng lên khi biết chúng tôi về tìm hiểu đời sống người Đan Lai.
Nhưng điều kỳ bí là cứ thấy bóng người lạ họ lại lẩn vào rừng sâu. “Số học trò cấp tiểu học tương đối nhiều nhưng cứ lên cấp học trên là tuần tự bỏ hết do trường lớp quá xa
Anh Nghệ nói tiếp: “Người Đan Lai ngày trước sống riêng biệt nên có nhiều hủ tục, trong đó đặc biệt nhất là tục thành hôn cận huyết hệ. Ngủ ngồi để lỡ có quan binh truy đuổi đến thì có thể vùng lên chạy được ngay. Trẻ mỏ Đan Lai vẫn còn đói ăn, đói chữ Đói ăn, đói điện và đói chữ Chúng tôi tìm vào bản Khe Bu (xã Châu Khê, Con Cuông), nơi có gần 100% người Đan Lai sinh sống.
Ông Cảnh buồn bã giảng giải: “Người Đan Lai có lề thói ngủ ngồi bên bếp lửa” – nói rồi ông chống một chiếc đũa lên cằm bộc lộ “ Để cho khỏi ngã vào than lửa thì phải chống một cái gậy dưới cằm thế này. Ngay cả lúc ăn họ cũng phải cảnh giác, họ ăn thật mau chóng, thậm chí ăn đứng để dễ bề trốn chạy. Lo sợ quan binh truy đuổi, họ sống ẩn hiện, ăn trái rừng, uống nước suối, quên hết tập tục và giọng nói, dần dà trở thành tộc người Đan Lai như ngày nay… Câu chuyện ly kì về sự xuất hiện của tộc người Đan Lai giữa vùng lõi Pù Mát đã được chứng thực phần nào bởi các công trình nghiên cứu của một số nhà sử học, dân tộc học.
Sau khi rời bỏ làng (được cho là vùng Thanh La, Thanh Chương hiện tại), người Đan Lai vẫn lo sợ quan binh truy sát nên phải sống núp trong rừng sâu, tự xóa đi những dấu tích cũ trên người, kể cả tiếng nói và tập tục vốn có.
Người Đan Lai hiện sống trên địa bàn 5 xã của huyện Con Cuông gồm: Châu Khê, Môn Sơn, Lục Dạ, Lạng Khê và Yên Khê.
Theo ông Vương Đình Lập, Trưởng ban định canh định cư (Ban dân tộc tỉnh Nghệ An): “Hiện tại đã di dời được 42 hộ ra 2 điểm tái định cư ở xã Thạch Ngàn (Con Cuông) và ổn định đời sống cho bà con. Cho đến khi lá chuối héo vàng nhìn lên thấy được sao trên trời thì lại bỏ đó mà đi”.
Trẻ sinh ra phải được tắm suối 3 lần để rèn sức chịu đựng. Hiện đồn 553 đang mở lớp xóa mù cho đồng bào Đan Lai (độ tuổi từ 15 - 35) và đã vận động được 20 học viên theo học.
Cả bản mới chỉ có 2 học sinh học THPT; 4 học trò cấp THCS. Người Đan Lai không có nhà, đi quăng chài lưới bên bờ khe bắt con cá con tôm, hết ngày thì chặt 3 cái cọc chụm lại rồi lấy lá chuối che lên.
Ngay cả lúc ngủ họ cũng bị ám ảnh, họ không nằm ngủ như thường lệ mà có tục ngủ ngồi. Khi chạy đến vùng rừng sâu nước độc này, một nhúm cơm cũng không có mà ăn. Người Đan Lai luôn được nh ận gạo cứu đói của quốc gia Nỗi sợ bị quan binh, trùm làng tìm đến truy sát vẫn cứ ám ảnh. Tuy nhiên thời gian xuất hiện của người Đan Lai vẫn huyền bí. Tháng 12 - 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 280/2006/QĐTTg chuẩn y Đề án “Bảo tồn và phát triển vững bền tộc người thiểu số Đan Lai sinh sống tại vùng lõi vườn nhà nước Pù Mát”
Đó là thời đoạn từng lớp phong kiến rối ren, tao loạn và lịch sử cũng đã ghi nhận thời gian này có nhiều nhóm cư dân ở khu vực đồng bằng Nghệ An phải bỏ làng để chạy giặc.
Số khác vẫn phải sử dụng đèn dầu, thậm chí có nhà cũng không có đèn, mỗi tối chỉ có nguồn sáng độc nhất vô nhị là bếp lửa.
Bản Khe Bu nằm cách QL7 chừng hơn 10km nhưng chúng tôi phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới có thể chạy xe máy vào tới nơi. Theo đó, rất có thể họ là kết quả của một cuộc chuyển cư thúc bách từ vùng đồng bằng lên miền rừng núi. Người Đan Lai vì vậy không dám ở yên một chỗ. Những người đàn ông khỏe mạnh đi trước chặt cây mở đường, họ ngược sông Giăng chạy mãi cho tới tận rừng sâu, nơi không còn thấy bóng người mới dám dừng lại.
Trước đây người Đan Lai nghèo lắm. Người chết phải bọc vỏ cây, lá rừng làm thùng. Nguồn cội kì bí của người Đan Lai Ông Lê Văn Cảnh biểu lộ tập tục ngủ ngồi của người Đan Lai Khoảng những năm 1980, quân nhân biên phòng Nghệ An đã phát hiện một tộc người lạ sinh sống giữa vùng lõi vườn nhà nước Pù Mát (Con Cuông - Nghệ An).
Các chiến sỹ khi đó đã quá kinh ngạc khi nhóm cư dân này vẫn còn ăn uống, sinh hoạt kiểu hoang dại như buổi sơ khai của từng lớp nguyên thủy. “Bây giờ còn có đường mà đi xe, trước thì vùng này toàn rừng rậm, phải mất mấy ngày vượt rừng mới có thể lội ra được ngoài đường cái” – anh Hồ Hữu Nghệ, Đội trưởng công tác tuyên truyền dân vận, Đồn biên phòng 553 cho biết.
Quá sợ hãi vì vận hạn giao nộp đã đến, một đêm trời tối đen như mực, cả làng thắp đuốc, nổi lửa rồi cùng nhau chạy trốn. “Để làm 1km đường điện vào bản phải mất chừng 25 tỷ đồng.
Bản làng sớm chìm vào bóng tối đen đặc của núi rừng. Theo đó, các hộ dân người Đan Lai thuộc vùng lõi (gồm 2 bản: Cò Phạt và bản Bủng) sẽ được di dời ra nơi ở mới. Thế đó… Chúng tôi là tộc người trốn chạy!”. “May quá, bữa ni nhà ta có thịt gà ăn lại được gặp khách quý”.
Bản Khe Bu vẫn còn nghèo đói và thiếu thốn. Có nhẽ bà con ở đây vẫn còn phải “đói” điện dài dài”- ông Nguyễn Văn Bình, chủ tịch UBND xã Châu Khê thở dài. Giả thuyết được nhiều người ưng ý đã lấy cột mốc cách hiện tại khoảng 6 đời, tức thị khoảng sau thế kỷ 17, 18.